< Ma-thi-ơ 26 >

1 Vả, Đức Chúa Jêsus đã phán những lời ấy xong rồi, thì phán cùng môn đồ rằng:
Əysa bu sɵzlǝrni ⱪilip bolƣandin keyin, muhlisliriƣa:
2 Các ngươi biết rằng còn hai ngày nữa thì đến lễ Vượt qua, và Con người sẽ bị nộp để chịu đóng đinh trên cây thập tự.
— Silǝrgǝ mǝlumki, ikki kündin keyin «ɵtüp ketix ⱨeyti» bolidu, xu qaƣda Insan’oƣli krestlinix üqün tutup berilidu, — dedi.
3 Bấy giờ các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân nhóm lại trong tòa thầy cả thượng phẩm tên là Cai-phe;
Bax kaⱨinlar wǝ aⱪsaⱪallar Ⱪayafa isimlik bax kaⱨinning sariyida jǝm boluxti.
4 và bàn với nhau dùng mưu chước gì đặng bắt Đức Chúa Jêsus mà giết.
Ular Əysani ⱪandaⱪ ⱪilip ⱨiylǝ-nǝyrǝng bilǝn tutup ɵltürüx toƣrisida mǝsliⱨǝt ⱪilixti.
5 Song họ nói rằng: Không nên làm trong ngày lễ, e trong dân chúng sanh ra điều xào xạc chăng.
Biraⱪ ular: — Bu ix ⱨeyt-ayǝm künliri ⱪilinmisun. Bolmisa, hǝlⱪ arisida malimanqiliⱪ qiⱪixi mumkin, — deyixti.
6 Khi Đức Chúa Jêsus ở làng Bê-tha-ni, tại nhà Si-môn là người phung,
Əmdi Əysa Bǝyt-Aniya yezisida, «Simon mahaw»ning ɵyidǝ bolƣinida,
7 có một người đàn bà cầm cái chai bằng ngọc trắng đựng dầu thơm quí giá lắm, đến gần mà đổ trên đầu Ngài đang khi ngồi ăn.
bir ayal uning yeniƣa kirdi. U aⱪ ⱪaxtexi xexidǝ naⱨayiti ⱪimmǝtlik ǝtirni elip kǝlgǝn bolup, Əysa dastihanda olturƣanda, ǝtirni uning bexiƣa ⱪuydi.
8 Môn đồ thấy vậy, giận mà trách rằng: Sao phí của như vậy?
Lekin muhlislar buni kɵrüp hapa boluxup: — Zadi nemixⱪa bundaⱪ israpqiliⱪ ⱪilinidu?
9 Dầu nầy có thể bán được nhiều tiền và lấy mà thí cho kẻ nghèo nàn.
Qünki bu ǝtirni kɵp pulƣa setip, pulini kǝmbǝƣǝllǝrgǝ sǝdiⱪǝ ⱪilsa bolattiƣu! — deyixti.
10 Đức Chúa Jêsus biết điều đó, bèn phán cùng môn đồ rằng: Sao các ngươi làm khó cho người đàn bà đó? Người đã làm việc tốt cho ta;
Lekin Əysa ularning kɵnglidikini bilip ularƣa: — Bu ayalning kɵnglini nemǝ dǝp aƣritisilǝr? Qünki u mǝn üqün yahxi bir ixni ⱪildi.
11 vì các ngươi thường có kẻ nghèo ở cùng mình, song sẽ không có ta ở cùng luôn luôn.
Qünki kǝmbǝƣǝllǝr daim silǝrning aranglarda bolidu, lekin mening aranglarda boluxum silǝrgǝ daim nesip boliwǝrmǝydu!
12 Người đổ dầu thơm trên mình ta là để sửa soạn chôn xác ta đó.
Bu ayalning bu ǝtirni bǝdinimgǝ ⱪuyuxi mening dǝpnǝ ⱪiliniximƣa tǝyyar boluxum üqün boldi.
13 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, khắp cả thế gian, hễ nơi nào Tin Lành nầy được giảng ra, thì cũng thuật lại việc người ấy đã làm để nhớ đến người.
Mǝn silǝrgǝ bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, bu hux hǝwǝr pütkül dunyaning ⱪǝyeridǝ jakarlansa, bu ayal ǝslinip, uning ⱪilƣan bu ixi tǝriplinidu, — dedi.
14 Bấy giờ có một người trong mười hai sứ đồ, tên là Giu-đa ỗch-ca-ri-ốt, đến tìm các thầy tế lễ cả,
Bu ixtin keyin, on ikkiylǝndin Yǝⱨuda Ixⱪariyot isimlik biri bax kaⱨinlarning aldiƣa berip:
15 mà nói rằng: Các thầy bằng lòng trả cho tôi bao nhiêu đặng tôi sẽ nộp người cho? Họ bèn trả cho nó ba chục bạc.
— Uni tutup bǝrsǝm, manga nemǝ berisilǝr? — dedi. Ular uning aldiƣa ottuz kümüx tǝnggǝ ⱪoydi.
16 Từ lúc đó, nó tìm dịp tiện để nộp Đức Chúa Jêsus.
Yǝⱨuda xuningdin etibarǝn uni tutup berixkǝ muwapiⱪ pursǝt izdǝxkǝ baxlidi.
17 Trong ngày thứ nhất ăn bánh không men, môn đồ đến gần Đức Chúa Jêsus mà thưa rằng: Thầy muốn chúng tôi dọn cho thầy ăn lễ Vượt qua tại đâu?
Petir nan ⱨeytining birinqi küni, muhlislar Əysaning yeniƣa kelip: — Ɵtüp ketix ⱨeytining tamiⱪini yeyixing üqün ⱪǝyǝrdǝ tǝyyarliximizni halaysǝn? — dǝp soridi.
18 Ngài đáp rằng: Hãy vào thành, đến nhà một người kia, mà nói rằng: Thầy nói: Giờ ta gần đến; ta và môn đồ ta sẽ giữ lễ Vượt qua trong nhà ngươi.
U ularƣa: — Xǝⱨǝrgǝ kirip palanqining ɵyigǝ berip uningƣa: «Ustaz: — Waⱪit-saitim yeⱪinlixip ⱪaldi, ɵtüp ketix ⱨeytini muhlislirim bilǝn birliktǝ sening ɵyüngdǝ ɵtküzǝy — dǝydu» dǝp eytinglar, — dedi.
19 Môn đồ làm y như lời Đức Chúa Jêsus đã dạy mà dọn lễ Vượt qua.
Muhlislar Əysaning tapiliƣinidǝk ɵtüp ketix ⱨeytining tamiⱪini xu yǝrdǝ tǝyyarlidi.
20 Đến tối, Ngài ngồi ăn với mười hai sứ đồ.
Kǝqⱪurun, u on ikkiylǝn bilǝn dastihanda olturdi.
21 Khi đang ăn, Ngài phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi rằng có một người trong các ngươi sẽ phản ta.
Ular ƣizaliniwatⱪanda u: — Mǝn silǝrgǝ bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, aranglardiki birǝylǝn manga satⱪunluⱪ ⱪilidu, — dedi.
22 Các môn đồ lấy làm buồn bực lắm, và lần lượt hỏi Ngài rằng: Lạy Chúa, có phải tôi không? Ngài đáp rằng:
[Buni anglap] ular intayin ⱪayƣuƣa qɵmüp, bir-birlǝp uningdin: — Ya Rǝb, mǝn ǝmǝstimǝn? — dǝp soraxⱪa baxlidi.
23 Kẻ nào để tay vào mâm với ta, ấy là kẻ sẽ phản ta.
U jawabǝn: — Ⱪolidiki nanni mǝn bilǝn tǝng tawaⱪⱪa tɵgürgǝn kixi, manga satⱪunluⱪ ⱪilƣuqi xu bolidu.
24 Con người đi, y theo lời đã chép về Ngài; song khốn nạn thay cho kẻ phản Con người! Thà nó chẳng sanh ra thì hơn!
Insan’oƣli dǝrwǝⱪǝ [muⱪǝddǝs yazmilarda] ɵzi toƣrisida pütülginidǝk [ɵlümgǝ] ketidu; biraⱪ Insan’oƣlining tutup berilixigǝ wasitiqi bolƣan adǝmning ⱨaliƣa way! U adǝm tuƣulmiƣan bolsa yahxi bolatti! — dedi.
25 Giu-đa là kẻ phản Ngài cất tiếng hỏi rằng: Thưa thầy, có phải tôi chăng? Ngài phán rằng: Thật như ngươi đã nói.
Uningƣa satⱪunluⱪ ⱪilidiƣan Yǝⱨuda: — Ustaz, mǝn ǝmǝstimǝn? — dǝp soridi. U uningƣa: — Ɵzüng deding jumu, — dedi.
26 Khi đang ăn, Đức Chúa Jêsus lấy bánh, tạ ơn rồi, bẻ ra đưa cho môn đồ mà rằng: Hãy lấy ăn đi, nầy là thân thể ta.
Ular ƣizaliniwatⱪanda, Əysa bir nanni ⱪoliƣa elip [Hudaƣa] tǝxǝkkür-ⱨǝmdusana eytⱪandin keyin, uni oxtup, muhlisliriƣa ülǝxtürüp bǝrdi wǝ: —Elinglar, yǝnglar, bu mening tenim, — dedi.
27 Ngài lại lấy chén, tạ ơn rồi, đưa cho môn đồ mà rằng: Hết thảy hãy uống đi;
Andin, ⱪoliƣa jamni elip [Hudaƣa] tǝxǝkkür-ⱨǝmdusana eytip, uni muhlisliriƣa tutup: — Ⱨǝmmǝylǝn buningdin iqinglar.
28 vì nầy là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội.
Bu mening nurƣun adǝmlǝrning gunaⱨlirining kǝqürüm ⱪilinixi üqün tɵkülidiƣan, yengi ǝⱨdini tüzidiƣan ⱪenimdur.
29 Ta phán cùng các ngươi, từ rày về sau, ta không uống trái nho nầy nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta.
Lekin mǝn xuni silǝrgǝ eytayki, Atamning padixaⱨliⱪida silǝr bilǝn birliktǝ yengidin xarabtin iqmigüqǝ, üzüm telining xǝrbitini ⱨǝrgiz iqmǝymǝn, — dedi.
30 Khi đã hát thơ thánh rồi, Đức Chúa Jêsus và môn đồ đi ra mà lên núi Ô-li-ve.
Ular mǝdⱨiyǝ küyini eytⱪandin keyin talaƣa qiⱪip, Zǝytun teƣiƣa ⱪarap ketixti.
31 Ngài bèn phán rằng: Đêm nay các ngươi sẽ đều vấp phạm vì cớ ta, như có chép rằng: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì chiên trong bầy sẽ bị tan lạc.
Andin Əysa ularƣa: — Bügün keqǝ silǝr ⱨǝmminglar mening tüpǝylimdin tandurulup putlixisilǝr, qünki [muⱪǝddǝs yazmilarda]: — «Mǝn padiqini uruwetimǝn, Padidiki ⱪoylar patiparaⱪ bolup tarⱪitiwetilidu» dǝp pütülgǝn.
32 Song sau khi ta sống lại rồi, ta sẽ đi đến xứ Ga-li-lê trước các ngươi.
Lekin mǝn tirilgǝndin keyin Galiliyǝgǝ silǝrdin burun barimǝn, — dedi.
33 Phi-e-rơ cất tiếng thưa rằng: Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, song tôi chắc không bao giờ vấp phạm vậy.
Petrus uningƣa jawabǝn: — Ⱨǝmmǝylǝn sening tüpǝylingdin tandurulup putlaxsimu, mǝn ⱨǝrgiz putlaxmaymǝn, dedi.
34 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Quả thật, ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần.
Əysa uningƣa: — Mǝn sanga bǝrⱨǝⱪ xuni eytip ⱪoyayki, bügün keqǝ horaz qillaxtin burun, sǝn mǝndin üq ⱪetim tanisǝn, — dedi.
35 Phi-e-rơ thưa rằng: Dầu tôi phải chết với thầy đi nữa, tôi chẳng chối thầy đâu. Hết thảy môn đồ đều nói y như vậy.
Petrus uningƣa: — Sǝn bilǝn billǝ ɵlüxüm kerǝk bolsimu, sǝndin ⱨǝrgiz tanmaymǝn, — dedi. Ⱪalƣan muhlislarning ⱨǝmmisimu xundaⱪ deyixti.
36 Rồi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ đi đến một chỗ kêu là Ghết-sê-ma-nê. Ngài phán rằng: Hãy ngồi đây đợi ta đi cầu nguyện đằng kia.
Andin Əysa ular bilǝn billǝ Getsimanǝ degǝn yǝrgǝ kǝldi. U muhlislarƣa: «Mǝn u yaⱪⱪa berip dua-tilawǝt ⱪilip kǝlgüqǝ, muxu jayda olturup turunglar» dedi.
37 Đoạn, Ngài bèn đem Phi-e-rơ và hai người con của Xê-bê-đê đi với mình, tức thì Ngài buồn bực và sầu não lắm.
U Petrusni, xundaⱪla Zǝbǝdiyning ikki oƣlini birgǝ elip mangdi wǝ ⱪattiⱪ azablinip, kɵngli tolimu pǝrixan boluxⱪa baxlidi.
38 Ngài bèn phán: Linh hồn ta buồn bực cho đến chết; các ngươi hãy ở đây và tỉnh thức với ta.
U ularƣa: — Jenim ɵlidiƣandǝk bǝkmu azablanmaⱪta. Silǝr bu yǝrdǝ ⱪelip, mǝn bilǝn birliktǝ oyƣaⱪ turunglar, — dewidi,
39 Rồi Ngài bước tới một ít, sấp mặt xuống đất mà cầu nguyện rằng: Cha ơi! nếu có thể được, xin cho chén nầy lìa khỏi Con! Song không theo ý muốn Con, mà theo ý muốn Cha.
Wǝ sǝl neriraⱪ berip, ɵzini yǝrgǝ etip düm yetip dua ⱪilip: — I Atam, mumkin bolsa, bu ⱪǝdǝⱨ mǝndin ɵtüp kǝtsun! Lekin bu ix mǝn haliƣandǝk ǝmǝs, sǝn haliƣandǝk bolsun, — dedi.
40 Kế đó, Ngài trở lại với môn đồ, thấy đang ngủ, thì Ngài phán cùng Phi-e-rơ rằng: Thế thì các ngươi không tỉnh thức với ta trong một giờ được!
U muhlislarning yeniƣa ⱪaytip kǝlginidǝ, ularning uhlap ⱪalƣanliⱪini kɵrüp, Petrusⱪa: — Mǝn bilǝn billǝ birǝr saǝtmu oyƣaⱪ turalmidinglarmu?!
41 Hãy thức canh và cầu nguyện, kẻo các ngươi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối.
Eziⱪturuluxtin saⱪlinix üqün, oyƣaⱪ turup dua ⱪilinglar. Roⱨ pidakar bolsimu, lekin kixining ǝtliri ajizdur, — dedi.
42 Ngài lại đi lần thứ hai, mà cầu nguyện rằng: Cha ơi! nếu chén nầy không thể lìa khỏi Con được mà Con phải uống thì xin ý Cha được nên.
U ikkinqi ⱪetim berip, yǝnǝ dua ⱪilip: — I Atam, ǝgǝr mǝn bu ⱪǝdǝⱨni iqmisǝm u mǝndin kǝtmisǝ, undaⱪta sening iradǝng ada ⱪilinsun, — dedi.
43 Ngài trở lại nữa, thì thấy môn đồ còn ngủ; vì mắt họ đã đừ quá rồi.
U ularning yeniƣa [ⱪaytip] kǝlginidǝ, yǝnǝ uhlap ⱪalƣanliⱪini kɵrdi, qünki ularning kɵzliri uyⱪuƣa ilinƣanidi.
44 Đoạn, Ngài bỏ mà lại đi cầu nguyện lần thứ ba, và lặp xin như lời trước.
Xuning bilǝn u ulardin ayrilip üqinqi ⱪetim berip, yǝnǝ xu sɵzlǝr bilǝn dua ⱪildi.
45 Rồi Ngài đi đến với môn đồ, mà phán rằng: Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư! Nầy, giờ đã gần tới, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ có tội.
Andin u muhlislarning yeniƣa kelip ularƣa: — Silǝr tehiqǝ uhlawatamsilǝr, tehiqǝ dǝm eliwatamsilǝr? Mana, waⱪit-saiti yeⱪinlaxti; Insan’oƣli gunaⱨkarlarning ⱪoliƣa tapxurulidu.
46 Hãy chờ dậy, đi hè, kìa kẻ phản ta đến kia.
Ⱪopunglar, ketǝyli; mana, manga satⱪunluⱪ ⱪilidiƣan kixi yeⱪin kǝldi! — dedi.
47 Khi Ngài còn đang phán, xảy thấy Giu-đa là một người trong mười hai sứ đồ đến với một bọn đông người cầm gươm và gậy, mà các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân đã sai đến.
Uning sɵzi tehi tügimǝyla, on ikkiylǝndin biri bolƣan Yǝⱨuda kǝldi; uning yenida bax kaⱨinlar wǝ hǝlⱪ aⱪsaⱪalliri tǝripidin ǝwǝtilgǝn, ⱪiliq-toⱪmaⱪlarni kɵtürgǝn zor bir top adǝm bar idi.
48 Đứa phản Ngài đã trao cho bọn đó dấu nầy: Người nào mà tôi sẽ hôn, ấy là người đó, hãy bắt lấy.
Uningƣa satⱪunluⱪ ⱪilƣuqi ular bilǝn alliburun ixarǝtni bekitip: «Mǝn kimni sɵysǝm, u dǝl xudur. Silǝr uni tutunglar» dǝp kelixkǝnidi.
49 Tức thì Giu-đa đến gần Đức Chúa Jêsus mà rằng: Chào thầy! Rồi hôn Ngài.
U udul Əysaning aldiƣa berip: — Salam, ustaz! — dǝp uni sɵyüp kǝtti.
50 Nhưng Đức Chúa Jêsus phán cùng nó rằng: Bạn ơi! vậy thì vì việc nầy mà ngươi đến đây sao? Rồi chúng nó đến gần tra tay bắt Đức Chúa Jêsus.
Əysa uningƣa: — Aƣinǝm, nemǝ dǝp kǝlding? — dedi. Xuning bilǝn, ⱨeliⱪi adǝmlǝr yopurulup kelip, Əysaƣa ⱪol selip, uni tutⱪun ⱪildi.
51 Và nầy, có một người trong những người ở với Đức Chúa Jêsus giơ tay rút gươm ra, đánh đầy tớ của thầy cả thượng phẩm, chém đứt một cái tai của người.
Wǝ mana, Əysaning yenidikilǝrdin birǝylǝn ⱪiliqini suƣurup, bax kaⱨinning qakiriƣa uruwidi, uning ⱪuliⱪini xilip qüxürüwǝtti.
52 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Hãy nạp gươm vào vỏ; vì hễ ai cầm gươm thì sẽ bị chết về gươm.
Əysa uningƣa: — Ⱪiliqingni ⱪiniƣa sal, ⱪiliq kɵtürgǝnlǝr ⱪiliq astida ⱨalak bolidu.
53 Ngươi tưởng ta không có thể xin Cha ta lập tức cho ta hơn mười hai đạo thiên sứ sao?
Yaki meni Atisiƣa nida ⱪilalmaydiƣan boldi, dǝp oylap ⱪaldingmu?! Xundaⱪ ⱪilsamla U manga xuan on ikki ⱪisimdin artuⱪ pǝrixtǝ mangdurmamdu?
54 Nếu vậy, thế nào cho ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã chép rằng việc nầy tất phải xảy đến?
Biraⱪ mǝn undaⱪ ⱪilsam, muⱪǝddǝs yazmilardiki bu ixlar muⱪǝrrǝr bolidu degǝn bexarǝtlǝr ⱪandaⱪmu ǝmǝlgǝ axurulsun? — dedi.
55 Lúc bấy giờ, Đức Chúa Jêsus phán cùng chúng rằng: Các ngươi đem gươm và gậy đến mà bắt ta, khác nào như ta là kẻ cướp. Ta thường ngày ngồi trong đền thờ và giảng dạy tại đó, mà các ngươi không bắt ta.
Xu pǝyttǝ Əysa toplaxⱪan adǝmlǝrgǝ ⱪarap: — Bir ⱪaraⱪqini tutidiƣandǝk ⱪiliq-toⱪmaⱪlarni kɵtürüp meni tutⱪili kǝpsilǝrƣu? Mǝn ⱨǝr küni ibadǝthana ⱨoylilirida silǝr bilǝn billǝ olturup tǝlim berǝttim, lekin silǝr u qaƣda meni tutmidinglar.
56 Nhưng mọi điều ấy phải xảy đến, hầu cho những lời các đấng tiên tri đã chép được ứng nghiệm. Khi ấy, hết thảy môn đồ bỏ Ngài mà trốn đi.
Lekin bu pütün ixlarning yüz berixi pǝyƣǝmbǝrlǝrning muⱪǝddǝs yazmilirida aldin eytⱪanlirining ǝmǝlgǝ axuruluxi üqün boldi, — dedi. Bu qaƣda, muhlislarning ⱨǝmmisi uni taxlap ⱪeqip ketixti.
57 Những kẻ đã bắt Đức Chúa Jêsus đem Ngài đến nhà thầy cả thượng phẩm Cai-phe, tại đó các thầy thông giáo và các trưởng lão đã nhóm lại.
Əmdi Əysani tutⱪun ⱪilƣanlar uni bax kaⱨin Ⱪayafaning aldiƣa elip berixti. Tǝwrat ustazliri bilǝn aⱪsaⱪallarmu u yǝrdǝ jǝm boluxⱪanidi.
58 Phi-e-rơ theo Ngài xa xa cho đến sân của thầy cả thượng phẩm, vào ngồi với các kẻ canh giữ đặng coi việc ấy ra làm sao.
Petrus uningƣa taki bax kaⱨinning sariyining [ⱨoylisiƣiqǝ] yiraⱪtin ǝgixip kelip, ixning aⱪiwetini kɵrüx üqün iqkirigǝ kirip, ⱪarawullarning arisida olturdi.
59 Bấy giờ các thầy tế lễ cả và cả tòa công luận kiếm chứng dối về Ngài, cho được giết Ngài.
Bax kaⱨinlar, aⱪsaⱪallar wǝ pütün aliy kengǝxmǝ ǝzaliri Əysani ɵlüm jazasiƣa mǝⱨkum ⱪilix üqün, yalƣan guwaⱨ-ispat izdǝytti.
60 Dầu có nhiều người làm chứng dối có mặt tại đó, song tìm không được chứng nào cả. Sau hết, có hai người đến,
Nurƣun yalƣan guwaⱨqilar otturiƣa qiⱪⱪan bolsimu, ular bulardin ⱨeqⱪandaⱪ ispatⱪa erixǝlmidi. Ahirda, ikki yalƣan guwaⱨqi otturiƣa qiⱪip:
61 nói như vầy: Người nầy đã nói Ta có thể phá đền thờ của Đức Chúa Trời, rồi dựng lại trong ba ngày.
— Bu adǝm: «Mǝn Hudaning ibadǝthanisini buzup taxlap, üq kün iqidǝ ⱪayta ⱪurup qiⱪalaymǝn» degǝn, dedi.
62 Thầy cả thượng phẩm bèn đứng dậy mà nói với Ngài rằng: Những người nầy làm chứng mà kiện ngươi, ngươi không thưa lại gì sao?
Bax kaⱨin ornidin turup, uningƣa: — Ⱪeni, jawab bǝrmǝmsǝn? Bular sening üstüngdin zadi ⱪandaⱪ guwaⱨliⱪlarni beriwatidu? — dedi.
63 Nhưng Đức Chúa Jêsus cứ làm thinh. Thầy cả thượng phẩm lại nói với Ngài rằng: Ta khiến ngươi chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề, hãy nói cho chúng ta, ngươi có phải là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời chăng?
Lekin Əysa süküt ⱪilip turiwǝrdi. Bax kaⱨin uningƣa: — [Mǝnggü] ⱨayat bolƣuqi Huda bilǝn sening ⱪǝsǝm ⱪilixingni buyruymǝnki, bizgǝ eyt, Hudaning Oƣli Mǝsiⱨ sǝnmu?» — dedi.
64 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời; vả lại, ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống.
Əysa mundaⱪ jawab ⱪayturdi: — Xundaⱪ, sening deginingdǝk. Lekin xunimu silǝrgǝ eytayki, buningdin keyin silǝr Insan’oƣlining Ⱪadir Bolƣuqining ong yenida olturidiƣinini wǝ kɵktiki bulutlar üstidǝ kelidiƣinini kɵrisilǝr.
65 Thầy cả thượng phẩm bèn xé áo mình mà nói rằng: Nó đã nói phạm thượng; chúng ta còn cần gì người làm chứng nữa sao? Các ngươi vừa nghe lời phạm thượng đó, thì nghĩ làm sao?
Xuning bilǝn bax kaⱨin tonlirini yirtip taxlap: — U kupurluⱪ ⱪildi! Əmdi baxⱪa ⱨǝrⱪandaⱪ guwaⱨqining nemǝ ⱨajiti? Mana, ɵzünglar bu kupurluⱪni anglidinglar!
66 Chúng trả lời rằng: Nó đáng chết!
Buningƣa nemǝ dǝysilǝr? — dedi. — U ɵlüm jazasiƣa layiⱪtur! — dǝp jawab ⱪayturuxti ular.
67 Họ bèn nhổ trên mặt Ngài, đấm Ngài, lại có kẻ vả Ngài,
Buning bilǝn ular uning yüzigǝ tükürüp, uningƣa muxt atⱪili turdi. Bǝziliri uni kaqatlap:
68 mà nói rằng: Hỡi Đấng Christ, hãy nói tiên tri đi; cho chúng ta biết ai đánh ngươi.
— Əy Mǝsiⱨ, pǝyƣǝmbǝrqilik ⱪilmamsǝn, eytip baⱪⱪina, seni kim urdi? — deyixti.
69 Bấy giờ Phi-e-rơ vẫn ngồi ngoài sân. Có một người đầy tớ gái đến gần, mà nói cùng người rằng: Ngươi cũng là kẻ ở với Jêsus, người Ga-li-lê.
Əmdi Petrus sarayning taxⱪiriⱪi ⱨoylisida olturatti. Bir dedǝk uning yeniƣa kelip: — Sǝn Galiliyǝlik Əysa bilǝn birgǝ idingƣu, — dedi.
70 Song Phi-e-rơ chối trước mặt chúng mà rằng: Ta không hiểu ngươi nói chi.
Lekin u ⱨǝmmǝylǝnning aldida inkar ⱪilip: — Sening nemǝ dǝwatⱪanliⱪingni qüxǝnmidim! — dedi.
71 Khi đi ra ngoài cửa, lại có một đầy tớ gái khác thấy người, bèn nói cùng kẻ ở đó rằng: Người nầy cũng ở với Jêsus, người Na-xa-rét.
Andin u dalanƣa qiⱪⱪanda, uni kɵrgǝn yǝnǝ bir dedǝk u yǝrdǝ turƣanlarƣa: — Bu adǝmmu Nasarǝtlik Əysa bilǝn birgǝ idi, — dedi.
72 Song Phi-e-rơ lại chối và thề rằng: Ta chẳng hề biết người ấy.
U yǝnǝ inkar ⱪilip: — Mǝn u adǝmni tonumaymǝn! — dǝp ⱪǝsǝm iqti.
73 Một chặp nữa, những kẻ ở gần đó đến gần nói với Phi-e-rơ rằng: Chắc thật, ngươi cũng thuộc về đảng ấy, vì tiếng nói của ngươi khai ngươi ra.
Bir’azdin keyin, u yǝrdǝ turƣanlar Petrusning yeniƣa kelip uningƣa: — Xübⱨisizki, sǝn ularning biri ikǝnsǝn, qünki tǝlǝppuzung seni pax ⱪilidu, — deyixti.
74 Người bèn rủa mà thề rằng: Ta không biết người đó đâu! Tức thì gà gáy.
[Petrus] ⱪattiⱪ ⱪarƣaxlar bilǝn ⱪǝsǝm ⱪilip: — U adǝmni zadi tonumaymǝn! — deyixigila horaz qillidi.
75 Phi-e-rơ nhớ lại lời Đức Chúa Jêsus đã phán rằng: Trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần. Đoạn, người đi ra và khóc lóc cách đắng cay.
Petrus Əysaning: «Horaz qillaxtin burun, sǝn mǝndin üq ⱪetim tanisǝn!» degǝn sɵzini esigǝ aldi. U taxⱪiriƣa qiⱪip, ⱪattiⱪ yiƣa-zar kɵtürdi.

< Ma-thi-ơ 26 >