< Công Vụ Các Sứ đồ 7 >

1 Thầy cả thượng phẩm bèn hỏi Ê-tiên rằng: Có phải thật như vậy chăng?
Bax kaⱨin Istipandin: — Bularning eytⱪanliri rastmu? — dǝp soridi.
2 Ê-tiên trả lời rằng: Hỡi các anh, các cha, xin nghe lời tôi! Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cùng tổ chúng ta là Aùp-ra-ham, khi người còn ở tại Mê-sô-bô-ta-mi, chưa đến ở tại Cha-ran,
Istipan mundaⱪ jawab bǝrdi: — Ⱪerindaxlar wǝ ata-bowilar, sɵzümgǝ ⱪulaⱪ selinglar! Atimiz Ibraⱨim tehi Mesopotamiyǝ rayonida turuwatⱪanda, yǝni Ⱨaran xǝⱨirigǝ kɵqüp makanlixixtin ilgiri, xan-xǝrǝpning Igisi Huda uningƣa ayan bolup:
3 mà phán rằng: Hãy ra khỏi quê hương và bà con ngươi, mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
«Sǝn ɵz yurtung wǝ uruⱪ-jǝmǝtingdin ayrilip qiⱪip, Mǝn sanga kɵrsitidiƣan zeminƣa barƣin» degǝnidi.
4 Bấy giờ người ra khỏi xứ Canh-đê, rồi đến thành Cha-ran. Từ đó, lúc cha người qua đời rồi, Đức Chúa Trời khiến người từ nơi đó qua xứ các ông hiện đang ở;
Buning bilǝn u Kaldiylǝrning zeminini taxlap, Ⱨaran xǝⱨirigǝ berip olturaⱪlaxti. Atisi ɵlgǝndin keyin, Huda uni bu zeminƣa, yǝni silǝr ⱨazir turuwatⱪan zeminƣa yɵtkǝp kǝldi.
5 Ngài chẳng ban cho người sản nghiệp gì trong xứ nầy, dầu một thẻo đất lọt bàn chân cũng không, nhưng Ngài hứa ban xứ nầy làm kỷ vật cho người và dòng dõi người nữa, dẫu bấy giờ người chưa có con cái mặc lòng.
U waⱪitta, [Huda] uningƣa bu zemindin miras bǝrmidi, ⱨǝtta uningⱪa tǝwǝ put ⱪoyƣudǝkmu bir yǝr bǝrmigǝnidi. Gǝrqǝ u tehiqǝ pǝrzǝnt kɵrmigǝn bolsimu, [Huda] bu zeminni uningƣa wǝ uning nǝsligǝ igiliki bolux üqün berixkǝ wǝdǝ ⱪildi.
6 Đức Chúa Trời phán như vầy: Dòng dõi ngươi sẽ ở ngụ nơi đất khách, người ta sẽ bắt chúng nó làm tôi và hà hiếp trong bốn trăm năm.
Andin Huda uningƣa mundaⱪ dedi: «Sening nǝsilliring yaⱪa yurtta musapir bolup turidu, xu yurttikilǝr ularni ⱪul ⱪilip tɵt yüz yil horlaydu.
7 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nhưng ta sẽ đoán xét dân đã bắt chúng nó làm tôi, kế đó, chúng nó sẽ ra khỏi, và thờ phượng ta trong nơi nầy.
Biraⱪ ularni ⱪulluⱪⱪa salƣan ǝlni jazalaymǝn», dedi Huda, «wǝ uningdin keyin, [nǝsilliring] u yǝrdin qiⱪip, bu yǝrdǝ Mening ibadǝt-hizmitimdǝ bolidu».
8 Đoạn, Đức Chúa Trời ban cho người sự giao ước về phép cắt bì. Aáy vậy, khi Aùp-ra-ham đã sanh một con trai là Y-sác, thì làm phép cắt bì cho, trong ngày thứ tám; Y-sác làm phép cắt bì cho Gia-cốp, và Gia-cốp làm phép ấy cho mười hai tổ phụ.
Keyin Huda Ibraⱨim bilǝn bǝlgisi hǝtnǝ bolƣan ǝⱨdini tüzgǝn, xuning bilǝn Isⱨaⱪ uningdin tɵrǝldi; [Ibraⱨim] uni sǝkkizinqi küni hǝtnǝ ⱪildi; xundaⱪ ⱪilip Isⱨaⱪtin Yaⱪup [tɵrǝldi], Yaⱪuptin on ikki «ⱪǝbilǝ atisi» [tɵrǝldi].
9 Mười hai tổ phụ ghen ghét Giô-sép, nên bán qua xứ Ê-díp-tô; nhưng Đức Chúa Trời ở cùng người.
Keyin, «ⱪǝbilǝ atiliri» inisi Yüsüpkǝ ⱨǝsǝt ⱪilip, uni Misirƣa ⱪulluⱪⱪa setiwǝtti. Lekin Huda uning bilǝn billǝ bolup,
10 Ngài giải cứu người khỏi cảnh khó khăn, và cho đầy ơn và trí trước mặt Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, vua ấy lập người làm tể tướng cai quản xứ Ê-díp-tô và cả nhà vua nữa.
uni barliⱪ jǝbir-japalardin ⱪutⱪuzup, uni Misir padixaⱨi Pirǝwnning nǝziridǝ iltipatⱪa igǝ ⱪilip, uningƣa danixmǝnlik ata ⱪildi. Padixaⱨ uni Misirƣa bax wǝzir, ordisiƣa bax ƣojidar ⱪildi.
11 Bấy giờ, xảy có cơn đói kém trong cả xứ Ê-díp-tô và xứ Ca-na-an; sự túng ngặt lớn lắm, tổ phụ chúng ta chẳng tìm được đồ ăn.
Keyin, eƣir aqarqiliⱪ pütkül Misir wǝ Ⱪanaan yǝrlirini besip, zor ⱪiyinqiliⱪ boldi. Ata-bowilirimiz ozuⱪ-tülük tapalmidi.
12 Gia-cốp nghe bên Ê-díp-tô có lúa mì, thì sai tổ phụ ta qua đó lần thứ nhất.
Yaⱪup ǝmdi Misirda axliⱪ barliⱪini angliƣan bolup, [oƣullirini], yǝni ata-bowilirimizni u yǝrgǝ birinqi ⱪetim ǝwǝtti.
13 Đến lần thứ hai, anh em Giô-sép nhận biết người, và Pha-ra-ôn mới biết dòng họ người.
Ikkinqi ⱪetim barƣanda, Yüsüp akiliriƣa ɵzini axkarilidi. Xuning bilǝn Yüsüpning jǝmǝtidikilǝr Pirǝwn padixaⱨⱪa mǝlum boldi.
14 Giô-sép bèn sai rước Gia-cốp là cha mình và cả nhà, cộng là bảy mươi lăm người.
Andin Yüsüp atisi Yaⱪupning aldiƣa hǝwǝr yǝtküzüp, uni pütün ailǝ-jǝmǝti bilǝn, jǝmiy yǝtmix bǝx kixini Misirƣa ɵzigǝ qaⱪirdi.
15 Vậy, Gia-cốp xuống xứ Ê-díp-tô, rồi chết tại đó, và tổ phụ chúng ta cũng vậy;
Xuning bilǝn Yaⱪup Misirƣa qüxti wǝ xu yǝrdǝ ɵldi; keyin [uningdin bolƣan] ata-bowilirimizmu xu yǝrdǝ ɵldi.
16 sau được đem về Si-chem, chôn nơi mộ mà Aùp-ra-ham đã lấy bạc mua của con cháu Hê-mô quê ở Si-chem.
Ularning jǝsǝtliri keyin Xǝkǝm xǝⱨirigǝ ⱪayturulup, Ibraⱨim burun Ⱨamorning oƣulliridin mǝlum pulƣa setiwalƣan, Xǝkǝmdiki bir yǝrlikkǝ ⱪoyuldi.
17 Nhưng, gần đến kỳ phải ứng nghiệm lời hứa Đức Chúa Trời đã thề với Aùp-ra-ham, dân cứ sanh sản và thêm nhiều lên trong xứ Ê-díp-tô,
Lekin Huda Ibraⱨimƣa ǝsli ⱪilƣan wǝdining waⱪti yeⱪinlaxⱪanda, Misirda turuwatⱪan [Israil] hǝlⱪining nopusi heli kɵpǝygǝnidi.
18 cho đến khi trong xứ đó có một vua khác dấy lên, chẳng nhìn biết Giô-sép.
U waⱪitta, Yüsüptin hǝwiri bolmiƣan yengi bir padixaⱨ Misirda tǝhtkǝ qiⱪti.
19 Vua nầy dùng mưu hại dòng giống và hà hiếp tổ phụ chúng ta, ép phải bỏ con mới sanh, hầu cho sống chẳng được.
Bu padixaⱨ ⱪowmimizƣa ⱨiylǝ-mikirlǝr bilǝn muamilǝ ⱪilip, ata-bowilirimizni ezip horlidi, ⱨǝtta ularni ɵz bowaⱪlirini ⱨayat ⱪaldurmasliⱪi üqün taxliwetixkǝ mǝjbur ⱪildi.
20 Trong lúc đó, Môi-se sanh ra; người xinh tốt khác thường, được nuôi trong ba tháng tại nhà cha mình.
Musa mana xu qaƣlarda tuƣulƣanidi. U Hudaning aldida alaⱨidǝ yeⱪimliⱪ bala bolup, atisining ɵyidǝ üq ay beⱪildi.
21 Khi người bị bỏ, thì con gái Pha-ra-ôn vớt lấy, nuôi làm con mình.
Keyin u sirtⱪa ⱪoyup ⱪoyulƣanda, Pirǝwnning ⱪizi uni [sudin] elip, ɵz oƣli ⱪilip qong ⱪildi.
22 Môi-se được học cả sự khôn ngoan của người Ê-díp-tô; lời nói và việc làm đều có tài năng.
Musa Misirliⱪlarning barliⱪ bilim-ⱨekmiti bilǝn tǝrbiyilinip, sɵzdǝ wǝ ǝmǝldǝ intayin ⱪabiliyǝtlik adǝm bolup qiⱪti.
23 Nhưng lúc người được đầy bốn mươi tuổi rồi, trong lòng nhớ đến, muốn đi thăm anh em mình là con cái Y-sơ-ra-ên.
Lekin uning tuƣulƣiniƣa ⱪiriⱪ yil toxⱪanda, ɵz ⱪerindaxliri bolƣan Israillarning ⱨaliƣa yetix niyitigǝ kǝldi.
24 Môi-se thấy có người hà hiếp một người trong đám họ, nên binh vực kẻ bị hà hiếp và đánh người Ê-díp-tô để báo thù cho.
U ulardin birining uwal ⱪilinip bozǝk ⱪiliniwatⱪanliⱪini kɵrüp, uni ⱪoƣdap, harlanƣan kixi üqün intiⱪam elip harliƣuqi Misirliⱪni ɵltürdi.
25 Người ngờ anh em mình chắc hiểu rằng Đức Chúa Trời dùng tay mình giải cứu họ; nhưng họ chẳng hiểu.
Qünki u ɵz ⱪerindaxlirini: — Huda mening ⱪolum arⱪiliⱪ bizgǝ ⱪutⱪuzux yolini aqⱪan dǝp qüxinidiƣu, dǝp oyliƣanidi. Lekin ular buni qüxǝnmidi.
26 Đến ngày sau, chúng đang đánh lộn với nhau, thì người đến gần mà giải hòa, rằng: Hỡi các ngươi, đã là anh em, sao lại làm hại nhau vậy?
Ətisi, Musa ularning arisidiki bir urux-jedǝlni kɵrüp, arisiƣa kirip yaraxturmaⱪqi bolup: Silǝr ⱪerindax turup, nemixⱪa bir-biringlarƣa yolsizliⱪ ⱪiliwatisilǝr? — dedi.
27 Kẻ đang ức hiếp người lân cận mình xô Môi se ra, mà rằng: Ai đã lập ngươi lên làm quan cai trị và quan xử đoán chúng ta?
Biraⱪ ⱪerindixini yolsiz bozǝk ⱪilƣan kixi uni qǝtkǝ ittiriwetip: — Kim seni bizgǝ bax ⱨǝm soraⱪqi bolsun dǝptu?!
28 Há ngươi muốn giết ta như hôm qua đã giết người Ê-díp-tô sao?
Menimu tünügünki Misirliⱪni ɵltürgǝndǝk ɵltürmǝkqimusǝn? — dedi.
29 Môi-se vừa nghe lời đó thì trốn đi ở trong xứ Ma-đi-an, nơi đó người sanh được hai con trai.
Musa bu sɵzni anglap ⱪorⱪup, Misirdin ⱪeqip Midiyan zeminiƣa berip, u yǝrdǝ musapir bolup turup ⱪaldi. U xu yǝrdǝ ikki oƣul pǝrzǝnt kɵrdi.
30 Cách bốn mươi năm, một thiên sứ hiện ra cùng người, tại đồng vắng núi Si-na-i, trong ngọn lửa nơi bụi gai đang cháy.
Ⱪiriⱪ yil toxⱪandin keyin, Sinay teƣining yenidiki qɵldǝ, kɵyüwatⱪan bir qatⱪalliⱪning ot yalⱪunida bir pǝrixtǝ uningƣa kɵründi.
31 Môi-se thấy vậy, lấy làm lạ về sự hiện ra đó, đang áp lại để xem cho gần hơn, thì nghe tiếng Chúa phán rằng:
Bu ƣayibanǝ kɵrünüxni kɵrgǝn Musa uningƣa intayin ⱨǝyran bolup ⱪaldi; buning ⱪandaⱪ ix ikǝnlikini bilǝy dǝp yeⱪinraⱪ barƣanda Pǝrwǝrdigarning awazi anglinip:
32 Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ ngươi, Đức Chúa Trời của Aùp-ra-ham, của Y-sác và của Gia-cốp. Môi-se run sợ, chẳng dám nhìn xem.
«Mǝn sening ata-bowiliringning Hudasi, yǝni Ibraⱨim, Isⱨaⱪ wǝ Yaⱪupning Hudasidurmǝn» dedi. Musa ⱪorⱪunqta titrǝp, ⱪaraxⱪimu jür’ǝt ⱪilalmidi.
33 Chúa bèn phán rằng: Hãy cổi giày ở chân ngươi ra; vì chỗ mà ngươi đứng đó là một nơi đất thánh.
Pǝrwǝrdigar uningƣa yǝnǝ: — Ayiƣingni seliwǝt; qünki sǝn turuwatⱪan yǝr muⱪǝddǝstur.
34 Ta đã đoái xem và thấy cảnh khó khăn của dân ta trong xứ Ê-díp-tô, ta đã nghe tiếng than thở của chúng nó, và xuống đặng giải cứu. Bây giờ hãy đến, đặng ta sai ngươi qua xứ Ê-díp-tô.
Mǝn dǝrⱨǝⱪiⱪǝt Misirda turuwatⱪan hǝlⱪimning harliniwatⱪanliⱪini kɵrdüm, ularning nalǝ-pǝryadlirini anglidim. Xunga mǝn ularni elip qiⱪⱪili qüxtüm. Əmdi barƣin, mǝn seni Misirƣa ǝwǝtǝy!» dedi.
35 Môi-se nầy là người họ đã bỏ ra, và rằng: Ai đã lập ngươi lên làm quan cai trị và quan đoán xét chúng ta? Aáy là người mà Đức Chúa Trời đã sai làm quan cai trị và đấng giải cứu, cậy tay một thiên sứ đã hiện ra với người trong bụi gai.
Mana ⱨeliⱪi kixilǝr: «Kim seni bizgǝ bax ⱨǝm soraⱪqi bolsun dǝptu!?» dǝp rǝt ⱪilƣan dǝl muxu Musani, Huda uningƣa qatⱪalliⱪta kɵrüngǝn pǝrixtining ⱪoli bilǝn Israillarƣa ⱨǝm bax ⱨǝm ⱪutⱪuzƣuqi boluxⱪa ǝwǝtti.
36 Aáy là người đã đem họ ra khỏi, làm những dấu kỳ phép lạ trong xứ Ê-díp-tô, trên Biển-đỏ, và nơi đồng vắng trong bốn mươi năm.
Ənǝ xu Musa hǝlⱪⱪǝ yetǝkqilik ⱪilip, ularni [Misirdin] qiⱪardi ⱨǝmdǝ Misir zeminida, Ⱪizil dengizning boyida wǝ ⱪiriⱪ yilni ɵtküzgǝn qɵldǝ karamǝtlǝrni wǝ mɵjizilik alamǝtlǝrni kɵrsǝtti.
37 Aáy là Môi-se nầy đã nói cùng con cái Y-sơ-ra-ên rằng: Đức Chúa Trời sẽ dấy lên trong hàng anh em các ngươi một đấng tiên tri giống như ta.
Ənǝ xu Musa ɵzi Israillarƣa: «Huda ⱪerindaxliringlar arisidin manga ohxax bir pǝyƣǝmbǝrni tiklǝydu» degǝnidi.
38 Aáy là người, trong dân hội tại nơi đồng vắng, đã ở với thiên sứ, là đấng phán cùng người trên núi Si-na-i, và với tổ phụ chúng ta, người lại nhận lấy những lời sự sống đặng trao lại cho các ngươi.
Qɵl-bayawandiki jamaǝtkǝ ⱨǝmraⱨ bolƣan, Sinay teƣida ɵzigǝ sɵz ⱪilƣan pǝrixtǝ bilǝn billǝ bolƣan, ata-bowilirimiz bilǝn billǝ bolƣan ⱨǝmraⱨ dǝl ǝnǝ xu idi; ⱨayatliⱪ bǝhx yǝtküzidiƣan wǝⱨiylǝrni bizgǝ yǝtküzüx üqün ⱪobul ⱪilƣuqi bolƣan dǝl ǝnǝ xu idi;
39 Aáy là người mà tổ phụ chúng ta không chịu vâng lời, đã bỏ người đặng nghiêng lòng về xứ Ê-díp-tô,
xundaⱪ bolsimu, ata-bowilirimiz uningƣa itaǝt ⱪilixni halimay, uni qǝtkǝ ⱪeⱪip, kɵnglidǝ Misirƣa ⱪaytixni arzu ⱪildi;
40 và nói với A-rôn rằng: Hãy làm các thần đi trước chúng ta; vì về phần Môi-se nầy, là người đã dẫn chúng ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô, chẳng biết có điều chi xảy đến cho người rồi.
xunga ular Ⱨarunƣa: — «Bizgǝ yol baxlaydiƣan ilaⱨlarni yasap bǝrgin! Qünki bizni Misir zeminidin elip qiⱪⱪan ⱨeliⱪi Musaning nemǝ bolup kǝtkǝnlikini bilǝlmiduⱪ» dedi.
41 Trong những ngày đó, họ đúc một tượng bò con, dâng tế lễ cho tượng và vui mừng về việc tay mình làm nên.
Xuning bilǝn xu künlǝrdǝ ular mozay xǝklidǝ bir but yasap, bu mǝbudⱪa atap ⱪurbanliⱪ sundi. Xundaⱪ ⱪilip ular ɵz ⱪolliri bilǝn yasiƣan bir nǝrsini huxal-huramliⱪ bilǝn tǝbriklǝxkǝ kirixti.
42 Đức Chúa Trời bèn lìa bỏ họ, phú họ thờ lạy cơ binh trên trời, như có chép trong sách các đấng tiên tri rằng: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, vậy có phải các ngươi từng dâng con sinh và của lễ cho ta, Trong bốn mươi năm ở nơi đồng vắng,
Lekin Huda ulardin yüzini ɵrüp, ularni asmandiki yultuz ⱪoxunliriƣa qoⱪunuxⱪa ⱪoyup bǝrdi. Xuning bilǝn pǝyƣǝmbǝrlǝrning muⱪǝddǝs yazmisida pütülgǝdǝk, [Huda ularni mundaⱪ ǝyiblidi]: — «Silǝr qɵl-bayawanda bolƣan ⱪiriⱪ yil jǝryanida ⱪilƣan ⱪurbanliⱪ-ⱨǝdiyǝlǝrni ⱨǝⱪiⱪǝtǝn Manga elip kǝlgǝnmusilǝr, i Israil jǝmǝti?
43 Khi các ngươi khiêng nhà trại của Mo-lóc Và ngôi sao của thần Rom-phan, Tức là những hình tượng mà các ngươi làm ra để thờ lạy chăng? Ta cũng sẽ đày các ngươi qua bên kia Ba-by-lôn.
Bǝrⱨǝⱪ, silǝr qoⱪunux üqün yasiƣan mǝbudlar, yǝni «Moloⱪ»ning qediri ⱨǝm butung bolƣan «Rǝmfan»ning yultuz bǝlgisini kɵtürüp mangdinglar; ǝmdi Mǝn silǝrni ǝsir ⱪilip Babildin yiraⱪⱪa sürgün ⱪildurimǝn».
44 Đền tạm chứng cớ vốn ở giữa tổ phụ chúng ta trong đồng vắng, như Chúa đã truyền lịnh cho Môi-se phải làm y theo kiểu mẫu người đã thấy.
Ata-bowilirimiz qɵldin kǝzgǝn waⱪtida, «ⱨɵküm-guwaⱨliⱪ» qediri ularning otturisida tiklǝngǝnidi; u dǝl Musaƣa sɵz-kalam Yǝtküzgüqining buyruƣinidǝk, kɵrsitilgǝn ɵrnǝk boyiqǝ yasalƣanidi.
45 Tổ phụ chúng ta đã nhận lấy đền tạm ấy, rồi đồng đi với Giô-suê đem vào xứ họ đã chiếm lấy của các dân mà Đức Chúa Trời đã đuổi khỏi trước mặt họ; đền tạm cứ ở đó cho đến đời vua Đa-vít,
Xu ibadǝt qedirini ata-bowilirimiz ilgiridikilǝrdinmu igidarqiliⱪiƣa tapxurup, Yǝxuaning yetǝkqilikidǝ, Huda ularning aldidila ⱪoƣliƣan ǝllǝrning zeminlirini besiwalƣinida, uni bu yǝrgǝ elip kǝlgǝn; qedir xundaⱪla [padixaⱨ] Dawutning zamaniƣiqǝ turƣan.
46 là người được ơn trước mặt Đức Chúa Trời, và xin ban một chỗ ở cho Đức Chúa Trời của Gia-cốp.
Dawut Hudaning xapaitigǝ erixip, Yaⱪupning Hudasi üqün bir muⱪim makan selixⱪa ijazǝt soriƣan.
47 Kế đó, vua Sa-lô-môn cất cho Chúa một cái nhà.
Biraⱪ keyin, [Huda] üqün ibadǝthana salƣan [Dawut ǝmǝs], ǝmǝliyǝttǝ Sulayman boldi.
48 Nhưng Đấng Rất Cao chẳng ở trong nhà bởi tay người ta làm ra, như đấng tiên tri đã nói:
Ⱨalbuki, Ⱨǝmmidin Aliy Bolƣuqi insanning ⱪolliri bilǝn yasiƣan makanlarda turmaydu; huddi pǝyƣǝmbǝr mundaⱪ deginidǝk: —
49 Chúa phán: Trời là ngai ta, Đất là bệ chân ta. Nào có nhà nào các ngươi cất cho ta, Có nơi nào cho ta yên nghỉ chăng?
«Asmanlar Mening tǝhtim, Zemin bolsa ayaƣlirimƣa tǝhtipǝrdur, Əmdi Manga ⱪandaⱪ ɵy-imarǝt yasimaⱪqisilǝr? Manga ⱪandaⱪ yǝr aramgaⱨ bolalaydu?
50 Há chẳng phải tay ta đã dựng nên mọi vật nầy chăng?
Bularning ⱨǝmmisini Mening ⱪolum yaratⱪan ǝmǝsmidi?»
51 Hỡi những người cứng cổ, lòng và tai chẳng cắt bì kia! Các ngươi cứ nghịch với Đức Thánh Linh hoài; tổ-phụ các ngươi thế nào, thì các ngươi cũng thế ấy!
— Əy, boyni ⱪattiⱪ, yüriki wǝ ⱪuliⱪi hǝtnisiz bolƣanlar! Silǝr Muⱪǝddǝs Roⱨ bilǝn daim ⱪarxilixisilǝr; silǝr ata-bowiliringlar nemǝ ⱪilƣan bolsa, xuni ohxax ⱪiliwatisilǝr!
52 Há có đấng tiên tri nào mà tổ phụ các ngươi chẳng bắt bớ ư? Họ cũng đã giết những người nói tiên tri về sự đến của Đấng Công bình; và hiện bây giờ chính các ngươi lại đã nộp và giết Đấng đó;
Pǝyƣǝmbǝrlǝrdin zadi ⱪaysisiƣa ata-bowiliringlar ziyankǝxlik ⱪilip baⱪmiƣan? Xundaⱪ ⱪilip ular «Ⱨǝⱪⱪaniy Bolƣuqi»ning kelidiƣanliⱪini aldin jakarliƣuqilarni ɵltürüxkǝn. Əmdi u ɵzi ⱨazir kǝlgǝndǝ, silǝr uningƣa satⱪunluⱪ ⱪilƣuqi wǝ ⱪatil bolup qiⱪtinglar,
53 các ngươi đã nhận luật pháp truyền bởi các thiên sứ, nhưng không giữ lấy!...
I silǝr Tǝwrat ⱪanunini pǝrixtilǝrning ǝmri-tapiliƣanliri bilǝn tapxuruwelip turup, uningƣa ǝmǝl ⱪilmiƣuqilar!»
54 Chúng nghe những lời đó, thì giận trong lòng, và nghiến răng với Ê-tiên.
[Istipanning] bu sɵzlirini angliƣan [aliy kengǝxmidikilǝr] yürikigǝ [hǝnjǝr] sanjilƣandǝk bolup, uningƣa qixlirini ƣuqurlatti.
55 Nhưng người, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, mắt ngó chăm lên trời, thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Jêsus đứng bên hữu Đức Chúa Trời;
Lekin u bolsa Muⱪǝddǝs Roⱨⱪa tolƣan, kɵzlirini kɵkkǝ tikip, Hudaning julasini, xundaⱪla uning ong yenida Əysaning turƣanliⱪini kɵrüp,
56 thì người nói rằng: Kìa, ta thấy các từng trời mở ra, và Con người đứng bên hữu Đức Chúa Trời.
— Ⱪaranglar! Asmanlar eqilip, Insan’oƣlining Hudaning ong yenida turƣanliⱪini kɵrüwatimǝn! — dedi.
57 Bấy giờ, chúng kêu lớn tiếng lên, bịt lỗ tai lại, cùng nhau chạy a lại,
Ular buningƣa ⱪulaⱪlirini ⱪolliri bilǝn etiwelip, awazini ⱪattiⱪ kɵtürüp warⱪirixip birliktǝ uningƣa yopurulup keliwidi,
58 kéo người ra ngoài thành, rồi ném đá người. Các kẻ làm chứng lấy áo xống mình để nơi chân một người trẻ tuổi kia tên là Sau-lơ.
uni xǝⱨǝrning sirtiƣa ittirip qiⱪirip, qalma-kesǝk ⱪilixⱪa baxlidi. [Uni ǝrz ⱪilƣan] guwaⱨqilar [uni qalma-kesǝk ⱪilixtin awwal] qapanlirini Saul isimlik bir yaxning puti aldida ⱪoyup ⱪoyuxti.
59 Chúng đang ném đá, thì Ê-tiên cầu nguyện rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, xin tiếp lấy linh hồn tôi.
Ular Istipanni qalma-kesǝk ⱪilƣinida u: — I Rǝb Əysa, mening roⱨimni ⱪobul ⱪilƣaysǝn! — dǝp nida ⱪildi.
60 Đoạn, người quì xuống, kêu lớn tiếng rằng: Lạy Chúa, xin đừng đổ tội nầy cho họ! Người vừa nói lời đó rồi, thì ngủ.
Andin u tizlinip turup ⱪattiⱪ awaz bilǝn: — I Rǝb, bu gunaⱨning ⱨesabini ulardin almiƣaysǝn, — dedi. U bu sɵzni ⱪilip bolupla jan üzüp uhlap kǝtti.

< Công Vụ Các Sứ đồ 7 >