< Luⱪa 8 >

1 Keyin, [Əysa] xu yurtlarni kezip, xǝⱨǝrmu-xǝⱨǝr, yezimu-yeza Hudaning padixaⱨliⱪining hux hǝwirini elan ⱪilip jakarlidi; on ikkiylǝnmu uning bilǝn birgǝ bardi.
Kế đó, Đức Chúa Jêsus đi thành nầy đến thành kia, làng nầy đến làng khác, giảng dạy và rao truyền tin lành của nước Đức Chúa Trời. Có mười hai sứ đồ ở với Ngài.
2 Uning bilǝn billǝ barƣanlardin yǝnǝ yaman roⱨlardin wǝ aƣriⱪ-silaⱪlardin saⱪaytilƣan bǝzi ayallarmu bar idi; ularning arisida ɵzidin yǝttǝ jin ⱨǝydǝp qiⱪirilƣan Mǝryǝm (Magdalliⱪ dǝp atalƣan),
Cũng có mấy người đàn bà đi theo Ngài, là những người đã được cứu khỏi quỉ dữ và chữa khỏi bịnh: Ma-ri, gọi là Ma-đơ-len, từ người bảy quỉ dữ đã ra,
3 Ⱨerod [han]ning saray ƣojidari Huzaning ayali Yoanna, Suzanna wǝ baxⱪa nurƣun ayallarmu bar idi. Bular ɵz mal-mülükliri bilǝn u [wǝ uning muhlislirining] ⱨajǝtliridin qiⱪatti.
Gian-nơ vợ Chu-xa, là quan nội vụ của vua Hê-rốt, Su-xan-nơ và nhiều người khác nữa giúp của cải cho Ngài.
4 Qong bir top adǝmlǝr yiƣilƣanda, xundaⱪla ⱨǝrⱪaysi xǝⱨǝrlǝrdin kixilǝr uning yeniƣa kǝlgǝndǝ, u ularƣa bir tǝmsil sɵzlǝp bǝrdi:
Khi có đoàn dân đông nhóm lại, và người hết thảy các thành đều đến cùng Ngài, thì Ngài lấy thí dụ mà phán cùng họ rằng:
5 — «Uruⱪ qaqⱪuqi uruⱪ qaqⱪili [etizƣa] qiⱪiptu. Uruⱪ qaqⱪanda, uruⱪlardin bǝziliri qiƣir yol üstigǝ qüxüp, dǝssilip ketiptu wǝ asmandiki uqar-ⱪanatlar kelip ularni yǝp ketiptu.
Người gieo đi ra để gieo giống mình. Khi vải giống, một phần giống rơi ra dọc đường, bị giày đạp và chim trời xuống ăn hết.
6 Baxⱪa bǝziliri taxliⱪ yǝrgǝ qüxüptu. Yǝrdǝ nǝmlik bolmiƣaqⱪa, ünüp qiⱪⱪini bilǝn ⱪurup ketiptu.
Một phần khác rơi ra nơi đất đá sỏi, khi mới mọc lên, liền héo đi, vì không có hơi ẩm.
7 Baxⱪa bǝziliri tikǝnlǝrning arisiƣa qüxüptu, tikǝnlǝr maysilar bilǝn tǝng ɵsüp maysilarni boƣuwaptu.
Một phần khác rơi vào bụi gai, gai mọc lên với hột giống, làm cho nghẹt ngòi.
8 Baxⱪa bǝziliri bolsa yahxi tupraⱪⱪa qüxüptu. Üngǝndin keyin, yüz ⱨǝssǝ ⱨosul beriptu». Bularni degǝndin keyin u yuⱪiri awaz bilǝn: — Angliƣudǝk ⱪuliⱪi barlar buni anglisun! dǝp towlidi.
Lại có một phần khác rơi xuống nơi đất tốt, thì mọc lên, và kết quả, một thành trăm. Đang phán mấy lời đó, Ngài kêu lên rằng: Ai có tai mà nghe, hãy nghe.
9 Keyin uning muhlisliri uningdin: — Bu tǝmsilning mǝnisi nemǝ? — dǝp soridi.
Môn đồ hỏi Ngài thí dụ ấy có nghĩa gì.
10 U ularƣa mundaⱪ dedi: — Hudaning padixaⱨliⱪining sirlirini bilix silǝrgǝ nesip ⱪilindi. Biraⱪ bu ixlar ⱪalƣan baxⱪilarƣa tǝmsillǝr bilǝnla eytilidu. Mǝⱪsiti xuki, «Ular ⱪarisimu kɵrmǝydu, anglisimu qüxǝnmǝydu».
Ngài đáp rằng: Đã ban cho các ngươi được biết những sự mầu nhiệm nước Đức Chúa Trời; song, với kẻ khác thì dùng thí dụ mà nói, để họ xem mà không thấy, nghe mà không hiểu.
11 Əmdi tǝmsilning mǝnisi mundaⱪ: — Uruⱪ bolsa, Hudaning sɵz-kalamidur.
Nầy, lời thí dụ đó nghĩa như vầy: Hột giống là đạo Đức Chúa Trời.
12 Qiƣir yol boyidikilǝr bolsa muxular: Ular sɵz-kalamni anglaydu; lekin Iblis kelip, ularning ixinip ⱪutⱪuzuluxining aldini elixi üqün ularning ⱪǝlbidiki sɵzni elip ketidu.
Phần rơi ra dọc đường, là những kẻ nghe đạo; nhưng về sau ma quỉ đến, cướp lấy đạo từ trong lòng họ, e rằng họ tin mà được cứu chăng.
13 Taxliⱪ yǝrgǝ qüxkǝn uruⱪlar sɵz-kalamni angliƣan ⱨaman huxalliⱪ bilǝn ⱪobul ⱪilƣanlarƣa tǝmsil ⱪilinƣan. Ularda yiltiz bolmiƣaqⱪa, pǝⱪǝt bir mǝⱨǝl ixinip, andin sinaⱪ-müxküllük waⱪti kǝlgǝndǝ, [etiⱪadtin] teyilip ketidu.
Phần rơi ra đất đá sỏi là kẻ nghe đạo, bèn vui mừng chịu lấy; nhưng họ không có rễ, chỉ tin tạm mà thôi; nên khi sự thử thách đến, thì họ tháo lui.
14 Tikǝnlikkǝ qüxkǝn uruⱪlar bolsa xundaⱪ adǝmlǝrni kɵrsǝtkǝnki, sɵzni angliƣan bolsimu, yolƣa qiⱪⱪandin keyin bu paniy ⱨayattiki ǝndixilǝr, bayliⱪlar wǝ ⱨalawǝtlǝrning eziⱪturuxliri bilǝn boƣulup, uruⱪ pixmay ⱨosul bǝrmǝydu.
Phần rơi vào bụi gai, là những kẻ đã nghe đạo, nhưng rồi đi, để cho sự lo lắng, giàu sang, sung sướng đời nầy làm cho đạo phải nghẹt ngòi, đến nỗi không sanh trái nào được chín.
15 Lekin yahxi tupraⱪⱪa qeqilƣan uruⱪlar bolsa — sɵz-kalamni anglap, sǝmimiy wǝ yahxi ⱪǝlbi bilǝn uni tutidiƣanlarni kɵrsitidu; bundaⱪ adǝmlǝr sǝwrqanliⱪ bilǝn ⱨosul beridu.
Song phần rơi vào nơi đất tốt, là kẻ có lấy lòng thật thà tử tế nghe đạo, gìn giữ và kết quả một cách bền lòng.
16 Ⱨeqkim qiraƣni yeⱪip ⱪoyup üstigǝ idixni kɵmtürüp ⱪoymas yaki kariwat astiƣa turƣuzmas, bǝlki qiraƣdanning üstigǝ ⱪoyidu; buning bilǝn ɵygǝ kirgǝnlǝr yoruⱪluⱪni kɵridu.
Không ai đã thắp đèn tại lấy thùng úp lại, hay là để dưới giường; nhưng để trên chân đèn, hầu cho ai vào nhà đều thấy sáng.
17 Qünki yoxurulƣan ⱨeqⱪandaⱪ ix axkarilanmay ⱪalmaydu, wǝ ⱨeqⱪandaⱪ mǝhpiy ix ayan bolmay, yoruⱪluⱪⱪa qiⱪmay ⱪalmaydu.
Thật không có điều gì kín mà không phải lộ ra, không có điều gì giấu mà chẳng bị biết và tỏ ra.
18 Xuning üqün, anglixinglarning ⱪandaⱪ ikǝnlikigǝ kɵngül ⱪoyunglar! Qünki kimdǝ bar bolsa, uningƣa tehimu kɵp berilidu; ǝmma kimdǝ yoⱪ bolsa, ⱨǝtta bar dǝp ⱨasabliƣinimu uningdin mǝⱨrum ⱪilinidu.
Vậy, hãy coi chừng về cách các ngươi nghe; vì kẻ đã có, sẽ cho thêm; kẻ không có, sẽ cất lấy sự họ tưởng mình có.
19 Əmdi uning anisi wǝ iniliri uning bilǝn kɵrüxkili kǝldi. Lekin adǝm nurƣun bolƣaqⱪa, yeniƣa kelǝlmigǝnidi.
Mẹ và anh em Đức Chúa Jêsus đến tìm Ngài; song vì người ta đông lắm, nên không đến gần Ngài được.
20 Xuning bilǝn birsi uningƣa: — Aningiz wǝ iniliringiz siz bilǝn kɵrüximiz dǝp, sirtta turidu, — dedi.
Vậy có kẻ báo cho Ngài biết rằng: Mẹ và anh em thầy ở ngoài, muốn thấy thầy.
21 Lekin u jawabǝn: — Mening anam wǝ aka-uka ⱪerindaxlirim bolsa Hudaning sɵzini anglap, uningƣa ǝmǝl ⱪilƣuqilardur, dedi.
Nhưng Ngài đáp rằng: Mẹ ta và anh em ta là kẻ nghe đạo Đức Chúa Trời và làm theo đạo ấy.
22 Wǝ xundaⱪ boldiki, xu künlǝrdin biri, u muhlisliri bilǝn bir kemigǝ qüxüp, ularƣa: — Kɵlning u ⱪetiƣa barayli, — dedi. Xuning bilǝn ular yolƣa qiⱪti.
Một ngày kia, Ngài xuống thuyền với môn đồ, mà phán rằng: Hãy qua bên kia hồ; rồi đi.
23 Kemǝ ketiwatⱪanda u uyⱪuƣa kǝtkǝnidi. Kɵlgǝ tuyuⱪsiz ⱪara boran kelip, kemigǝ su toxup ketip, ular hǝwptǝ ⱪaldi.
Khi thuyền đang chạy, thì Ngài ngủ. Có cơn bão nổi lên trong hồ, nước vào đầy thuyền, đang nguy hiểm lắm.
24 Muhlislar kelip uni oyƣitip: — Ustaz, ustaz, tügixidiƣan bolduⱪ! — dedi. Lekin u ornidin turup, boranƣa wǝ dawalƣuƣan dolⱪunlarƣa tǝnbiⱨ bǝrdi; ⱨǝmmisi tohtap, tinq boldi.
Môn đồ bèn đến thức Ngài dậy, rằng: Thầy ôi, Thầy ôi, chúng ta chết! Nhưng Ngài, vừa thức dậy, khiến gió và sóng phải bình tịnh thì liền bình tịnh và yên lặng như tờ.
25 U muhlisliriƣa ⱪarap: — Ixǝnqinglar nǝgǝ kǝtti? — dedi. Ular ⱨǝm ⱪorⱪuxup, ⱨǝm bǝkmu ⱨǝyran bolup, bir-birigǝ: — Bu adǝm zadi kimdu, buyruⱪ ⱪilsa, ⱨǝtta xamallar wǝ dolⱪunlarmu uningƣa boysunidikǝn-ⱨǝ! — dǝp ketixti.
Ngài bèn phán cùng môn đồ rằng: Đức tin các ngươi ở đâu? Môn đồ sợ hãi và bỡ ngỡ, nói với nhau rằng: Người nầy là ai, khiến đến gió và nước, mà cũng phải vâng lời người?
26 Xuning bilǝn ular Galiliyǝning udulidiki Gerasaliⱪlarning yurtiƣa yetip bardi.
Kế đó, ghé vào đất của dân Giê-ra-sê, ngang xứ Ga-li-lê.
27 U ⱪirƣaⱪⱪa qiⱪixi bilǝnla, uzundin beri jinlar qaplaxⱪan, xǝⱨǝrdin kǝlgǝn mǝlum adǝm uning aldiƣa kǝldi. Bu adǝm kiyim kiymǝy, ⱨeq ɵydǝ turmay, gɵrlǝr arisida yaxaytti.
Khi Đức Chúa Jêsus lên bờ, có một người ở thành ấy bị nhiều quỉ ám đi gặp Ngài. Đã lâu nay, người không mặc áo, không ở nhà, song ở nơi mồ mả.
28 Lekin u Əysani kɵrüpla warⱪirap, uning ayiƣiƣa yiⱪilip ⱪattiⱪ awaz bilǝn: — Ⱨǝmmidin Aliy Hudaning Oƣli Əysa, sening mǝn bilǝn nemǝ karing! Sǝndin ɵtünimǝnki, meni ⱪiynima! — dǝp towlap kǝtti.
Người ấy vừa thấy Đức Chúa Jêsus thì la lên inh ỏi, và đến gieo mình nơi chân Ngài, nói lớn tiếng rằng: Lạy Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời Rất Cao, tôi với Ngài có sự chi chăng? Tôi cầu xin Ngài, đừng làm khổ tôi.
29 Qünki Əysa napak roⱨning uningdin qiⱪixini buyruwatatti (qünki jin nurƣun ⱪetim uni tutuwalƣanidi; u qaƣlarda kixilǝr uning put-ⱪollirini kixǝn-zǝnjirlǝr bilǝn baƣlap uni ⱪamap ⱪoyƣan bolsimu, u zǝnjirlǝrni üzüp ⱪeqip qiⱪⱪan wǝ jin tǝripidin qɵl-bayawanlarƣa ⱨǝydiwetilgǝnidi).
Vì Đức Chúa Jêsus đang truyền cho tà ma phải ra khỏi người đó mà nó đã ám từ lâu; dầu họ giữ người, xiềng và còng chân lại, người cứ bẻ xiềng tháo còng, và bị quỉ dữ đem vào nơi đồng vắng.
30 Əysa bu adǝmdin: — Isming nemǝ? — dǝp soriwidi, u: — Ismim «Ⱪoxun», — dedi. Qünki nurƣun jinlar uning iqigǝ kirip qaplixiwalƣanidi.
Đức Chúa Jêsus hỏi người rằng: Mầy tên gì? Người thưa rằng: Quân đội; vì nhiều quỉ đã ám vào người.
31 Əmdi ular Əysadin ɵzlirini tegi yoⱪ ⱨangƣa kǝtküzmǝslikni ɵtünüp yalwurdi. (Abyssos g12)
Chúng nó bèn cầu xin Đức Chúa Jêsus đừng khiến mình xuống vực sâu. (Abyssos g12)
32 Xu yǝrdǝ taƣ baƣrida qong bir top tongguz padisi ozuⱪliniwatatti. Jinlar Əysaƣa yalwurup, tongguzlarning tenigǝ kirixkǝ ijazǝt berixini ɵtündi. U ularƣa ijazǝt bǝrdi.
Vả, ở đó có một bầy heo đông đang ăn trên núi. Các quỉ xin Đức Chúa Jêsus cho chúng nó nhập vào những heo ấy, Ngài bèn cho phép.
33 Jinlar xu adǝmdin qiⱪip, tongguzlarning tenigǝ kiriwaldi; xuning bilǝn pütkül tongguz padisi tik yardin etilip qüxüp, kɵlgǝ ƣǝrⱪ boldi.
Vậy, các quỉ ra khỏi người đó, nhập vào bầy heo, bầy heo từ trên bực cao đâm đầu xuống hồ và chết chìm.
34 Tongguzlarni baⱪⱪuqilarmu bu wǝⱪǝni kɵrüp u yǝrdin ⱪeqip, xǝⱨǝr-yezilarda bu hǝwǝrni tarⱪatti.
Các kẻ chăn heo thấy vậy chạy trốn, đồn tin ấy ra trong thành và trong nhà quê.
35 Halayiⱪ zadi nemǝ ix bolƣanliⱪini kɵrgili qiⱪti; Əysaning aldiƣa kǝlgǝndǝ, xu yǝrdǝ ɵzidin jinlar qiⱪⱪan ⱨeliⱪi adǝmning kiyim-keqǝkni kiyip, ǝs-ⱨoxi jayida ⱨalda Əysaning ayiƣi aldida olturƣinini kɵrdi; ular ⱪorⱪup ketixti.
Thiên hạ bèn đổ ra xem việc mới xảy ra; khi họ đến cùng Đức Chúa Jêsus, thấy người mà các quỉ mới ra khỏi ngồi dưới chân Đức Chúa Jêsus, mặc áo quần, bộ tỉnh táo, thì sợ hãi lắm.
36 Bu wǝⱪǝni kɵrgǝnlǝrmu jinlar qaplaxⱪan adǝmning ⱪandaⱪ saⱪaytilƣinini kɵpqilikkǝ tǝswirlǝp bǝrdi.
Những người đã xem thấy sự lạ đó, thuật lại cho thiên hạ biết người bị quỉ ám được cứu khỏi thế nào.
37 Andin Gerasaliⱪlarning yurtidikilǝr wǝ ǝtrapidiki barliⱪ kixilǝr uning ularning arisidin ketixini ɵtünüxti. Qünki dǝⱨxǝtlik ⱪorⱪunq ularni basⱪanidi. Xunga u kemigǝ qüxüp, ⱪaytixⱪa yol aldi.
Hết thảy dân ở miền người Giê-ra-sê xin Đức Chúa Jêsus lìa khỏi xứ họ, vì họ sợ hãi lắm. Ngài bèn xuống thuyền trở về.
38 Əmma jinlar ɵzidin qiⱪip kǝtkǝn ⱨeliⱪi adǝm uningƣa, Mǝn sǝn bilǝn billǝ ketǝy, — dǝp yalwurdi. Lekin u uni yolƣa selip:
Người đã khỏi những quỉ ám xin phép ở với Ngài, nhưng Đức Chúa Jêsus biểu về, mà rằng:
39 — Ɵyünggǝ ⱪaytip berip, Hudaning sanga xunqǝ qong ixlarni ⱪilip bǝrgǝnlikini yǝtküzgin, — dedi. U adǝm ⱪaytip berip, pütkül xǝⱨǝrni arilap, Əysaning ɵzigǝ xunqǝ qong ixlarni ⱪilip bǝrgǝnlikini elan ⱪildi.
Hãy về nhà ngươi, thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho ngươi. Vậy, người ấy đi, đồn khắp cả thành mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm cho mình.
40 Əysa ⱪaytip kǝlginidǝ, xundaⱪ boldiki, halayiⱪ uni huxalliⱪ bilǝn ⱪarxi elixti; qünki ⱨǝmmǝylǝn uning ⱪaytip kelixini kütüp turatti.
Khi trở về, có đoàn dân đông rước Ngài; vì ai nấy cũng trông đợi Ngài.
41 Wǝ mana, bir kixi, sinagogning qongi bolƣan Yairus isimlik kiximu Əysaning aldiƣa kelip ayiƣiƣa ɵzini etip, uning ɵyigǝ berixini ɵtündi.
Có người cai nhà hội tên là Giai-ru đến sấp mình xuống nơi chân Đức Chúa Jêsus, xin Ngài vào nhà mình.
42 Qünki uning on ikki yaxliⱪ yalƣuz ⱪizi sǝkratta idi. Əysa u yǝrgǝ barƣinida, top-top kixilǝr uning ǝtrapiƣa ziq olixip uni ⱪistixatti.
Vì người có con gái một, mười hai tuổi, gần chết. Khi Đức Chúa Jêsus đang đi, dân chúng lấn ép Ngài tứ phía.
43 Arisida hun tǝwrǝx kesiligǝ giriptar bolƣiniƣa on ikki yil bolƣan bir ayal bar idi; u bar-yoⱪini tewiplarƣa hǝjlǝp tügǝtkǝn bolsimu, ⱨeqⱪaysisidin xipa tapmiƣanikǝn.
Bấy giờ, có một người đàn bà đau bịnh mất huyết mười hai năm rồi, cũng đã tốn hết tiền của về thầy thuốc, không ai chữa lành được,
44 U [Əysaning] arⱪisidin kelip, uning tonining pexini siliwidi, xuan hun tohtidi.
đến đằng sau Ngài rờ trôn áo; tức thì huyết cầm lại.
45 Əysa: — Manga ⱪol tǝgküzgǝn kim? — dǝp soridi. Ⱨǝmmǝylǝn inkar ⱪilƣanda, Petrusmu wǝ uning bilǝn bolƣanlarmu: — Ustaz, halayiⱪ top-top bolup tɵt ǝtrapingni olixip, seni ⱪistixiwatⱪan yǝrdǝ, sǝn «Manga tǝgkǝn kim?», dǝp soraysǝnƣu? — dedi.
Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ai sờ đến ta? Ai nấy đều chối; Phi-e-rơ và những người đồng bạn thưa rằng: Thưa thầy, đoàn dân vây lấy và ép thầy.
46 Lekin Əysa: — Yaⱪ! Birsi manga tǝgdi; qünki wujudumdin ⱪudrǝtning qiⱪip ketiwatⱪinini sǝzdim, — dedi.
Đức Chúa Jêsus phán rằng: Có người đã rờ đến ta, vì ta nhận biết có quyền phép từ ta mà ra.
47 Ⱨeliⱪi ayal ɵzining yoxurup ⱪalalmaydiƣanliⱪini bilip, titrigǝn ⱨalda uning aldiƣa yiⱪildi wǝ kɵpqilik aldida ɵzining nemǝ sǝwǝbtin Əysaƣa ⱪol tǝgküzgǝnlikini, xundaⱪla xuan ⱪandaⱪ saⱪayƣanlikini eytti.
Người đàn bà thấy mình không thể giấu được nữa, thì run sợ, đến sấp mình xuống nơi chân Ngài, tỏ thật trước mặt dân chúng vì cớ nào mình đã rờ đến, và liền được lành làm sao.
48 Əysa uningƣa: — Yürǝklik bol, ⱪizim, ixǝnqing seni saⱪaytti! Aman-hatirjǝmlik bilǝn mangƣin! — dedi.
Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi con gái ta, đức tin ngươi đã chữa lành ngươi; hãy đi cho bình an.
49 U sɵz ⱪiliwatⱪanda, sinagog qongining ɵyidin qiⱪⱪan birǝylǝn kelip sinagog qongiƣa: — Ⱪizingiz jan üzdi. Əmdi ustazni kayitmiƣin, — dedi.
Ngài còn đang phán, có kẻ ở nhà người cai nhà hội đến nói với người rằng: Con gái ông chết rồi; đừng làm phiền thầy chi nữa.
50 Lekin Əysa buni anglap uningƣa: — Ⱪorⱪmiƣin! Pǝⱪǝt ixǝnqtǝ bol, u saⱪiyip ketidu, — dedi.
Song Đức Chúa Jêsus nghe vậy, phán cùng Giai-ru rằng: Đừng sợ, hãy tin mà thôi, thì con ngươi sẽ được cứu.
51 U ɵygǝ barƣanda Petrus, Yuⱨanna, Yaⱪup wǝ ⱪizning ata-anisidin baxⱪa ⱨeqkimning ɵzi bilǝn billǝ ɵygǝ kirixigǝ ruhsǝt ⱪilmidi.
Khi đến nhà, Ngài chỉ cho Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng, và cha mẹ con ấy vào cùng Ngài.
52 U yǝrdikilǝr hǝmmisi ⱪizƣa matǝm tutup yiƣa-zar kɵtürüwatatti. Lekin u: — Boldi, yiƣlimanglar! Qünki ⱪiz ɵlmidi, pǝⱪǝt uhlap ⱪaptu! — dedi.
Ai nấy đều khóc lóc than vãn về con đó. Nhưng Ngài phán rằng: Đừng khóc, con nầy không phải chết, song nó ngủ.
53 Ular bolsa ⱪizning alliⱪaqan jan üzdi dǝp bilgǝqkǝ, uni mǝshirǝ ⱪildi.
Họ biết nó thật chết rồi, bèn nhạo báng Ngài.
54 Lekin u ularni qiⱪiriwetip, ⱪizning ⱪolidin tartip: — Balam, ornungdin tur, — dǝp qaⱪirdi.
nhưng Đức Chúa Jêsus cầm lấy tay con ấy, gọi lớn tiếng lên rằng: Con ơi, hãy chờ dậy!
55 [Ⱪizning] roⱨi ⱪaytip kelip, u dǝrⱨal ornidin turdi. U ⱪizƣa yegüdǝk birnemǝ berixni eytti.
Thần linh bèn hoàn lại, con ấy chờ dậy liền; rồi Ngài truyền cho nó ăn.
56 Ⱪizning ata-anisi intayin ⱨǝyran ⱪelixti. Lekin u ularƣa bu ixni ⱨeqkimgǝ eytmasliⱪni tapilidi.
Cha mẹ nó lấy làm lạ; nhưng Ngài cấm nói lại sự xảy ra đó với ai.

< Luⱪa 8 >